Hướng tới kỷ niệm ngày thương binh liệt sỹ (27/7),chúng tôi kể lại câu chuyệncơ duyên được gặp gỡ và tiếp xúc với cựu chiến binh (CCB) Nguyễn Văn Ấm, quê ở xã Chương Dương, Hà Nội – thuộc thế hệ “Xếp bút nghiên lên đường cầm súng/Học người xưa đi cứu non sông”.
Năm 1964, cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam bước vào giai đoạn cam go, quyết liệt. Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, người thanh niên Nguyễn Văn Ấm lên đường nhập ngũ khi chưa học hết lớp 8. Ông kể với chúng tôi nhập ngũ thuộc Trung đoàn 224 (đoàn Tô Vĩnh Diện), Sư đoàn phòng không 375. Tháng 2/1964, đơn vị đóng quân ở Sơn Tây, ông được tham gia lớp tập huấn pháo cao xạ. Sau khi học xong, ông được đơn vị giữ lại làm giảng viên nhưng theo tiếng gọi non sông, tổ quốc, ông đã tình nguyện lên đường chiến đấu và làm trợ lý kỹ thuật phòng không cho Trung đoàn.Tháng 9/1965, Bộ Tư Lệnh phòng không đưa tên lửa do Liên Xô tài trợ đến Ba Vì (Hà Nội) để chiến đấu. Sau khi bắn rơi được 2 máy bay Mỹ, đơn vị ông được lệnh gấp rút khỏi Ba Vì vì nhận thấy nguy cơ Mỹ quay trở lại tấn công trả thù. Chính trong thời gian đóng quân ở đây, ông đã làm quen, kết hôn với người vợ của mình: “Năm 1967, tôi lấy vợ, ở với vợ được nửa tháng rồi đi biền biệt tận năm 1976 mới về”. Từ năm 1965–1968, trước khi tham gia chiến trường ở Lào năm 1969, đơn vị ông tập huấn ở nhiều địa điểm như: Thái Nguyên, Vinh (Nghệ An)…. Ông kể với chúng tôi không bao giờ có thể quên được những tình cảm nồng ấm và hình ảnh những giọt nước mắt của người dân Vinh (Nghệ An) dành cho ông và đơn vị: “Tôi nhớ lúc đó vào khoảng tháng 9/1969, bà con tiễn đưa chúng tôi đi sang Lào chiến đấu, dành chúng tôi những món quà nồng ấm, với những ba lô chứa đầy những quả cam chưa chín mà bà con nhân dân hái vội để gửi các chiến sỹ. Hình ảnh người dân nhường cơm sẻ áo, nhịn ăn chia từng củ khoai cho đồng đội chúng tôi; những giọt nước mắt như mưa tiễn đưa chúng tôi khi qua sông Bến Thủy”.

CCB Nguyễn Văn Ấm cùng với kỷ vật đã theo ông trong suốt quá trình chiến đấu tại các chiến trường và trong cả thời bình
Đến nước Lào, ông là trợ lý kỹ thuật thuộc binh trạm 12, trung đoàn 284, đường 559 tham gia chiến đấu tại bản Lằng Khằng (huyện Buala Pha, tỉnh Khăm Muộn).Chúng tôi ở mặt trận phía Tây Trường Sơn, thiếu nước, sợ đói không sợ bằng thiếu nước. Vừa nhắc đến địa danh trên, giọng ông như trầm xuống lại“anh em mình ngày đó hy sinh nhiều lắm. Giờ này chắc họ vẫn còn nằm lại đấy, lẫn trong cỏ cây, sông suối, bản làng”. Nước mắt người lính già cứ tuôn rơi theo dòng cảm xúc, ông nhớ về những người đồng đội đã hi sinh, tự tay ông chôn cất hay đưa họ về quê hương “tất cả những điều đó, tôi không thể nào quên, chỉ đến khi chết tôi mới quên được…”
Cuối năm 1971, đơn vị ông lúc đó gồm 2 trung đoàn pháo cao xạ 100 là 284, 243, sư đoàn 377. Cùng với các sư đoàn khác nhận lệnh điều động từ chiến trường Lào vào chiến trường ở Quảng Trị – một trong những mặt trận khốc liệt nhất, được mệnh danh là “mùa hè đỏ lửa” của cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc. Đã có hàng nghìn chiến sĩ đã ngã xuống trong trận chiến khốc liệt này, Khi nhắc đến kỷ niệm chiến trường, giọng ông nghẹn ngào:“Trong một lần đơn vị chúng tôi trực chiến, tôi nghe tiếng máy bay réo trên đầu to lắm, cảm giác như ném bom B52. Tôi hô hào đồng đội nằm xuống nhưng chỉ có tôi và 1 đồng đội kịp nằm xuống trên bãi cỏ tranh nên may mắn sống sót, còn lại 18 đồng đội hy sinh. Khi tận phải chứng kiến những đồng đội ngã xuống, hy sinh tôi đau xót lắm, có những người hy sinh không toàn vẹn. 2,3 đồng đội hy sinh được đặt chung trong quan tài để chuyển ra Nghệ An chôn cất”.
Ông cảm thấy bản thân là người may mắn so với nhiều đồng đội của mình: “Tôi may mắn hơn các đồng đội trở về còn nguyên vẹn. Nhiều đêm đang ngủ chợt giật mình tỉnh giấc khi chứng kiến đồng đội mình hi sinh trên chiến trường, khóc thương đồng đội không thành lời.”.
Kỷ vật kháng chiến- người bạn đã theo ông suốt hơn 50 năm luôn được ông cất giữ bên mình đó là chiếc ca làm từ ống pháo sáng, chiến lợi phẩm thu được của Mỹ khi ông tham gia chiến trường Lào năm 1969. Ông kể: “Pháo sáng là một thiết bị không quân Mỹ thường sử dụng trong cuộc chiến để đánh dấu vị trí, mục tiêu. Một quả pháo sáng phát ra ánh sáng mạnh, màu sắc rực rỡ, kèm theo 1 cái dù bay và treo lơ lửng trên bầu trời chiếu sáng mặt đất. Một đêm Mỹ dải hàng trăm quả xuống đất để soi mục tiêu nhưng không ai dám đuổi theo để nhặt vì rất nguy hiểm, dưới đất chúng rải chất độc, bom băng, bom dứa, bom bi dây, bom từ trường”. Khi chúng tôi hỏi, làm cách nào để lấy được những quả pháo sáng đó. Ông kể tiếp: “Trong 1 đêm, nhóm chúng tôi khoảng 7-8 người phải leo lên trên ngọn núi cao bản Lằng Khằng (huyện Buala Pha, tỉnh Khăm Muộn) để theo dõi xem Mỹ thả pháo sáng ở vị trí nào. Sau khi xác định được vị trí rơi, anh em phải dùng một sợi dây dài buộc vào thân cây tre, rồi lia và kéo cho nổ quả pháo sáng để lấy ống pháo. Lấy được 4 ống phải dùng gỗ và dao khoét để làm được 12 cái ca để chia cho các đồng đội. Ca này có ưu điểm có thể sử dụng để nấu cơm, nấu nước. Tôi đã đem về rũa và khắc tên kỷ niệm Trường Sơn Nhớ để lại những năm tham gia chiến đấu tại Lào”.Chiếc ca như người bạn tri kỷ, theo ông trong suốt quá trình chiến đấu trên chiến trường. Khi hòa bình lập lại, trở về với gia đình, con gái út của ông ốm đau phải nằm viện, cái ca này thường xuyên được ông mang đi chăm sóc cho con:“thời đó khó khăn, con gái tôi ốm suýt chết, đi viện phải mang theo bó củi để nấu nướng, chiếc ca không chỉ đun nước mà còn nấu cơm, canh chăm cho con ở bệnh viện. Đặc biệt nấu củi bẩn đến mấy cứ đánh đi lại sạch”.

Chiếc ca được gò từ ống pháo sáng tại chiến trường Lào năm 1969
Sau khi giải phóng Quảng Trị năm 1972, ông cùng các đồng đội tham gia nhiều chiến dịch khác, góp phần vào công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Cán bộ Bảo tàng Hà Nội gặp gỡ, sưu tầm hiện vật của các CCB người Hà Nội sinh sống ở Phù Ninh, Phú Thọ. Ảnh chụp năm 2020.
Hiện vật chiếc ca gò từ ống pháo sáng cùng với những ký ức của ông sẽ được lưu giữ và giới thiệu trong trưng bày thường xuyên của Bảo tàng Hà Nội như một trang sử vẻ vang ghi nhận, tri ân những cống hiến của những người lính, các cựu chiến binh người Hà Nội vào công cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.
Th.s Kiều Tuấn Đạt
Phòng Sưu tầm, Kiểm kê và bảo quản





