NHỚ VỀ NỮ NHÀ VĂN, LIỆT SỸ DƯƠNG THỊ XUÂN QUÝ NHỮNG NGÀY THÁNG BẢY
Dân
tộc ta trải qua biết bao nhiêu đau thương từ những cuộc chiến tranh trong lịch
sử. Có được hòa bình độc lập như ngày hôm nay chính là nhờ một phần lớn công
lao của các thế hệ đi trước đã cống hiến hết mình trong sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc. Nhiều người con Việt Nam đã ra đi không bao giờ
trở lại, trong đó phải kể tới lớp lớp các phóng viên, nhà báo đã xông pha vào
chiến trường ác liệt giữa bom đạn, khói lửa của chiến tranh. Nữ nhà văn, liệt sỹ
Dương Thị Xuân Quý là một trong số đó.
Nhà
văn, liệt sỹ Dương Thị Xuân Quý sinh ngày 19/4/1941 tạisố nhà 195 Hàng Bông, Hoàn
Kiếm, Hà Nội. Chị sinh ra trong một dòng họ nổi tiếng về truyền thống trí thức
yêu nước quê gốc tại thôn Phú Thị,Mễ Sở, Văn Giang, Hưng Yên. Ông nội chị, cụ
Dương Trọng Phổ và bác ruột chị là Dương Bá Trạc đều tham gia phong trào Đông
Kinh- Nghĩa Thục và bị thực dân Pháp bắt giam tại Côn Lôn. Bác ruột nữa của chị
là giáo sư, liệt sỹ Dương Quảng Hàm- nhà nghiên cứu văn học, nhà giáo uyên bác. Thân
phụ chị, ông Dương Tụ Quán- một nhà giáo, nhà báo, người chủ trương nhiều tờ
báo trước năm 1940. Các
anh, chị em chú bác ruột với Dương Thị Xuân Quý rất nhiều người thành danh
trong sự nghiệp văn chương, nghệ thuật và khoa học. Có lẽ do ảnh
hưởng của truyền thống gia đình như vậy mà ngay từ khi còn nhỏ, chị đã có năng
khiếuviết và say mê văn chương.
Thuở nhỏ, chị theo gia đình lên Thái Nguyên tham gia kháng chiến. Sau ngày giải phóng Thủ đô, trở lại Hà Nội, chị theo học trường tiểu học Lý Thường Kiệt, học cấp 2 tại trường Trưng Vương. Sau này, chị chọn cho mình theo ngành Trắc địa mỏ tại Quảng Ninh nhưng với khả năng viết của mình, chị thường xuyên cộng tác với báo Tiền Phong và báo Lao động. Cũng từ đây, tên tuổi của chị xuất hiện nhiều trên các mặt báo. Chị theo học một khóa báo chí do Ban Tuyên giáo Trung ương tổ chức. Sau khi tốt nghiệp, chị về làm phóng viên báo Phụ nữ Việt Nam từ 1961 đến 1968. Những cố gắng tích cực trong suốt quá trình học tập và làm cộng tác viên, phóng viên, chị đã nhận được nhiều giấy khen, giấy chứng nhận và bằng khen.
Giấy khen và giấy chứng nhận của nhà văn- liệt sĩ Dương Thị Xuân Quý được bà Dương Thị Mai (chị ruột) hiến tặng Bảo tàng Hà Nội năm 2014.
Khi
giặc Mỹ ném bom miền Bắc,
cô phóng viên xông xáo, can đảm đãcó mặt tại tuyến lửa quân khu IV. Chị chọn cách hành nghề vô cùng quả cảm, trực tiếp đến nơi ác liệt nhất mới hiểu được lòng dân và các chiến sỹ
bộ đội để được những trang viết có giá trị. Nhiều bài báo, một số truyện ngắn và bút ký, chị viết ngay tại tuyến lửa này.
Người
con gái Hà thành mạnh mẽ, với quyết tâm cháy bỏng, tình nguyện viết đơn xin vào
miền Nam chiến đấu. Tháng 2-1966,
chị lập gia đình với nhà thơ Bùi Minh Quốc. Tháng 4 năm 1968, gửi con gái nhỏ
mới 16 tháng tuổicho thân mẫu, chị lên
đường vượt Trường Sơn vào nhận nhiệm vụ phóng viên Tạp chí Văn nghệ giải phóng thuộc
Trung Trung bộ, quân khu V- nơi mà chồng chị đã có mặt từ một năm
trước đó.Những năm tháng ấy, Quảng Đà là chiến trường ác liệt nhất của khu V
nói riêng và của cả miền Nam nói chung. Đây cũng là mảnh đất anh hùng, kiên
trung bất khuất. Vượt qua gian khổ, chị quyết tâm đến với Quảng Đà. Thế rồi, đêm
ngày 08/3/1969, trong một trận càn quét ác liệt của quân địch, chị đã hy sinh tại thôn Thi Thại, xã Xuyên Tân (nay
là xã Duy Thành), huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.Chị ra đi ở tuổi 28 phơi phới thanh xuân khi đang tràn đầy sức viết và khát vọng sáng tạo.
Nhớ về chị là nhớ về những lá thư chị
gửi về cho gia đình, kể chuyện tình
hình đi công tác, kể chuyện địch thả bom bắn phá. Chị viết: “Em về Nghi Ân bị hai trận bom kinh khủng
quá. Hôm 30-6 lúc 1g trưa nó đến thả bom và bắn đạn rốc két suốt 1 tiếng đồng hồ.
Em đang làm việc ở trong nhà, chỉ kịp bước chân xuống đất đã nghe nó bắn rung
nhà, sau cứ lăn trườn theo giao thông hào ra hầm hàm ếch …”.Và “Em đã được thấy máy bay Mỹ rơi xuống như một
chiếc lá và tóe lửa cháy.Nó còn sạt trên đầu mà vẫn phải reo ầm lên. Khoái quá đi mất. Lần đầu tiên đấy...”
Nhớ về chị là nhớ những dòng nhật ký đầy cảm xúc của một người mẹ xa con thơ bé bỏng, sống giữa vùng chiến bom đạn khói lửa, chị viết:“Ngoài nỗi nhớ Ly và Hà Nội ra mình không sợ gì cả”...“Ôi thương Ly vô hạn. Cứ nghĩ như vậy là mình lại khóc. Khổ thân con quá. Đẻ ra vừa biết cười là bom đạn. Vừa nhú răng là sơ tán. Vừa biết gọi mẹ là xa mẹ. Vừa biết nói là nói hai tiếng “Đi Nam”.
Những lá thư nhà văn- liệt sĩ Dương Thị Xuân Quý gửi về gia đình được bà Dương Thị Mai (chị ruột) hiến tặng cho Bảo tàng Hà Nội năm 2014.
Gạt
lại phía sau những hạnh phúc riêng tư, vượt lên nỗi nhớ thương con,trút bỏ những yếu mềm của người phụ nữ, vượt qua gian khổ,
những trận đói và sốt rét,
chị đã tác nghiệp trực tiếp giữa bom đạn. Ở đó sự sống và cái chết hết sức mong manh. Mỗi chuyến đi, mỗi
trang nhật ký chị ghi chép tỉ mỉ và kỹ lưỡng để có những tác phẩm đi vào lịch sử
văn học chống Mỹ với văn phong rất riêng phản ánh chân thực cuộc sống của quân
và dân khu V.Chị
để lại nhiều tác phẩm như: truyện “Chỗ đứng”, bút ký “Gương mặt thách thức”, truyện
ngắn “Hoa rừng”,…Năm
2007, chị được truy tặng giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
Chiến tranh đã qua đi, Dương Thị Xuân Quý mãi
không trở về.Nhớ về chị là nhớ về
cả một thế hệ cha anh đã cống hiến hết mình cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng
dân tộc, bảo vệ Tổ quốc. Với đạo lý truyền thống “uống nước nhớ nguồn” cao đẹp của dân tộc, ngày Thương binh- Liệt sỹ 27/7 mỗi
năm là dịp để Đảng,
Nhà nước và người dân khắp mọi
miền trân trọng, bày tỏ lòng biết ơn với những người con đã hy sinh, những gia
đình có công với cách mạng. Qua đó, giáo dục cho thế hệ trẻ truyền thống yêu nước,
lòng tự hào dân tộc.
Bài, ảnh: Đặng Lan Hương