Ngày 31/12/2024, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long đã ký quyết định số 1712/QĐ-TTg công nhận bảo vật quốc gia (đợt 13, năm 2024) cho các hiện vật, nhóm hiện vật, trong đó có Đôi tượng Nghê đồng, niên đại: thế kỷ XVII, hiện được lưu giữ tại Bảo tàng Hà Nội.
Sau đây, xin được trân trọng giới thiệu bảo vật Quốc gia này:
Đôi tượng nghê đồng được Bảo tàng Hà Nội sưu tầm năm 1992. Khi đưa về bảo tàng, đôi tượng nghê đồng vẫn đang bị phủ nhiều đất và một số mảng nhỏ trên thân và chân bị sứt, vỡ. Chứng tỏ cổ vật đã được người dân phát hiện ngẫu nhiên. Hiện nay, đôi tượng nghê đồng được bảo quản tốt, lớp patin xanh đồng xám phủ đều. Đây là kết quả của quá trình lưu giữ, bảo quản của bảo tàng để phục vụ tốt cho công tác nghiên cứu, trưng bày phát huy giá trị.
I/ THÔNG TIN CHUNG
1. Số lượng: 02 hiện vật.
2. Số đăng ký:
1. BTHN 6898/ KL 361
2. BTHN 6899/ KL 362
3. Chất liệu: Đồng
4. Kích thước (cm):
1. Cao tổng thể 58,4 ; chân đế 22 x 42
2. Cao tổng thể 59,0 ; chân đế 22 x 42
5. Trọng lượng (gram):
1. 11.200
2. 12.300
II/ ĐẶC ĐIỂM
Đôi tượng nghê đồng được thể hiện trong tư thế ngồi quỳ chầu, với phong cách một tác phẩm tượng tròn không liền khối gồm 3 phần rời nhau: đầu – thân – đuôi (đã mất), sau đó được lắp ghép với nhau bằng những mộng và chốt để tạo nên một tác phẩm hoàn chỉnh, khó nhận biết được dấu vết ẩn chứa một ý niệm của tín ngưỡng, tâm linh.
Tư thế ngồi quỳ chầu của đôi tượng nghê đồng vững chãi, uy nghiêm. Mông và hai chân sau cùng mặt phẳng. Hai chân trước nghê chống thẳng, đầu ngẩng cao, mặt hướng lên phía trên, mắt nhìn thẳng phía trước. Khuôn mặt nghê được diễn tả sinh động từ đôi mắt sâu, lông mày to, rậm, mũi lớn, miệng rộng, lưỡi cong, hàm răng lộ rõ với hai răng nanh ấn tượng như đang cười khiến cho có sự uy nghiêm nhưng lại có cảm giác gần gũi. Điều này hoàn toàn khác so với những linh vật chầu của Trung Hoa thường thấy trong các cung điện, đền miếu và lăng tẩm. Đôi tai nghê to, cụp xuống. Bộ râu nghê tạo chạc ba, giống như tam sơn, ở hai phía là hai dải tua cong, vắt lên trên tai khiến cho nghê có diện mạo lành hiền, gần gũi. Có thể nói, bộ mặt của linh vật được nghệ nhân đúc đồng chăm chút diễn tả, đem đến tinh thần và hồn cốt vô cùng sống động và ấn tượng.
Thân nghê tròn lẳn, bụng hóp, ngực nở ưỡn về phía trước, cổ đeo lục lạc, hai vai có dải cù (tua đeo) và dải tết hình “song tiền” sau lưng, kết hợp với những đường gân nổi ở cổ, ở ức diễn tả một sự gầy guộc của vật linh mẫn cán, canh gác cho chốn linh thiêng nơi thờ tự. Hai chân trước nghê có 4 ngón, móng nhọn, dường như không dính với bệ khiến có cảm giác đôi nghê này không giống như một số đôi nghê bằng đồng khác, như phần trên của lư trầm, đem đến một sự khác lạ, rất đáng được lưu tâm.Toàn thân nghê được phủ lớp lông dày, xoắn tròn ở phía đầu, nhưng vẫn lộ ra mảng xương sườn, mảng gân nổi kết hợp với cổ và ức tạo nên sự khổ hạnh của chốn tu hành. Hai bên sống lưng nghê thể hiện những dải lông dài, xoắn tròn ở chân và vút lên ở ngọn tạo thành những đao mác, kết hợp với những đường gân ở giữa sống lưng đem đến một sự khỏe khoắn và khác biệt so với một số đôi nghê đồng đã biết. Đường sống lưng nghê đúc nổi những cặp văn xoắn tròn đối xứng.
Về mặt tạo hình: nghê được tạo ở tư thế tĩnh nhưng rất thần thái, đặc biệt là khuôn mặt và nụ cười, kết hợp những hoa văn phủ kín trên thân mềm mại và uốn lượn khiến người xem vẫn nhìn thấy sự chuyển động. Tĩnh nhưng động là nguyên lý hội họa cổ xưa nói chung và tượng tròn nói riêng, theo đó con người, vật linh, chim muông, thậm chí cả cây cỏ… đều sống động trong môi trường cụ thể. Hoa văn trang trí trên tượng nghê vô cùng tỉ mỉ, trau chuốt, sắc nét, với bố cục hài hòa, hợp lý tạo nên giá trị hiện thực và biểu tượng của linh vật: đó là loài linh vật không có thật, nhưng đâu đó vẫn thấy những yếu tố thật của một loài vật vốn rất gần gũi với đời sống của con người, là những người bạn, người đày tớ trung thành của con người trong đời sống thường nhật.
Trang trí hoa văn trên đôi tượng nghê dày đặc, tưởng như vô cùng phức tạp để nhận ra những đồ án. Thế nhưng, đi vào từng chi tiết chúng rạch ròi và khúc triết, mà tưởng đâu như bức bối, ngột ngạt trên một không gian vô cùng hạn hẹp của đôi tượng nghê. Những bộ râu, lông, lục lạc… được thể hiện bằng những đường nét li ti, không chỉ là phản ánh phong cách nghệ thuật mang dấu ấn thời đại mà ở đó, một thiên tài của người thiết kế, của người thợ thủ công đúc đồng, dường như đã quay lại với truyền thống của hơn 1.000 năm trước – thuở vàng son, hoàng kim của Đông Sơn với dày đặc những hoa văn trên trống đồng, thạp đồng, qua những mảng khối hoa văn rõ ràng, khúc triết, qua những nguyên lý hội họa “tĩnh trong động”, được diễn tả theo những băng tròn, ngược và thuận theo chiều kim đồng hồ. Ở đó, cũng thấy một kỹ thuật siêu đẳng của nghề đúc đồng Đông Sơn quay trở lại, với độ siêu mỏng của vật đúc, nhưng vẫn không thể chuẩn xác hơn, rất ít những lỗi kỹ thuật do quy trình đúc để lại.
Trống đồng – thạp đồng – nghê đồng dường như không hề có sự gắn kết về loại hình và đề tài trang trí. Nhưng phong cách và kỹ thuật, đặc biệt là hoa văn, bố cục hoa văn, độ mỏng của hiện vật… đã cho thấy một truyền thống ngàn năm bị đứt đoạn, thời Lê Trung Hưng quay trở lại, phải chăng như một sự bảo lưu truyền thống? Đó là sự bảo lưu nhằm tôn vinh những giá trị tích cực, có sự đổi mới, cách tân của thời đại, tạo nên từ hai tác phẩm nghê đồng nêu trên.
Nhìn tổng thể đôi tượng nghê đồng được tạo hình cầu kỳ, tinh mĩ với dáng ngồi quỳ chầu, tuy ở trạng thái tĩnh nhưng các đường đúc, chạm khắc trên tượng đã làm tăng vẻ sinh động, linh thiêng. Cả phần thân và phần đầu của tượng nghê được phủ lớp patin màu xám xanh trên toàn bộ bề mặt là cơ sở chứng minh tính nguyên gốc hiện vật.
III. LÝ DO ĐÔI TƯỢNG NGHÊ ĐỒNG ĐƯỢC CÔNG NHẬN LÀ BẢO VẬT QUỐC GIA, vì:
1. Là hiện vật gốc, độc bản
2. Có hình thức độc đáo
3. Có giá trị nghệ thuật tiêu biểu cho một thời đại
Với tất cả những lý do nêu trên, đôi tượng nghê đồng của Bảo tàng Hà Nội là hiện vật tiêu biểu, có nhiều giá trị trên các lĩnh vực lịch sử, văn hoá, kỹ, mỹ thuật. Cùng với 05 nhóm hiện vật đã được công nhận là bảo vật Quốc gia tại các Quyết định số 53/QĐ-TTg ngày 14/1/2015, số 2382/QĐ-TTg ngày 25/12/2015 và Quyết định số 41/QĐ-TTg ngày 30/1/2023 của Thủ tướng Chính phủ về việc công nhận Bảo vật Quốc gia gồm: Trống đồng và bộ sưu tập lưỡi cày đồng phát hiện ở Mả Tre (năm 1982), chuông Thanh Mai, chân đèn gốm thời Mạc, Long đình gốm Bát Tràng và bộ sưu tập vũ khí trường Giảng Võ sẽ là điểm nhấn quan trọng trong thiết kế trưng bày của Bảo tàng Hà Nội. Trong thời gian tới, khách thăm quan và các nhà nghiên cứu có thể tìm hiểu về các hiện vật đặc biệt quý hiếm này, góp phần vào việc giáo dục truyền thống, nâng cao lòng tự hào dân tộc cho nhân dân cả nước.
MỘT SỐ HÌNH ẢNH



(Thể hiện mặt nghiêng)

(Thể hiện mặt lưng)
TS. Lê Thị Kim Tước
Ths. Trần Văn Tùy
Phòng Sưu tầm, Kiểm kê và Bảo quản