Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam luôn gắn liền với dáng hình của người phụ nữ. Đức hy sinh cao cả, tấm lòng sắt son với quê hương, gia đình, tinh thần quả cảm “giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh” đã làm nên vẻ đẹp riêng của phụ nữ Việt Nam, họ như những bông hoa nở giữa phong ba, bão táp.
Phụ nữ Việt Nam với bao đức tính cao đẹp, luôn hết lòng chăm lo cho hạnh phúc gia đình, yêu chồng, thương con thắm thiết. Nhưng khi Tổ quốc lâm nguy, các mẹ, các chị sẵn sàng động viên chồng con lên đường chiến đấu. Không chỉ là hậu phương vững chắc, chị em còn trực tiếp cầm súng bảo vệ quê hương. Với sức chịu đựng bền bỉ, ý chí kiên trung, phụ nữ Việt Nam đã vượt qua mọi hoàn cảnh khắc nghiệt trong chốn lao tù hay hiên ngang đối mặt với quân thù nơi chiến trường ác liệt.
Các nữ chiến sĩ yêu nước, cách mạng tiêu biểu trong hoàn cảnh lao tù khắc nghiệt. Sự đày ải của kẻ địch đã khiến nhiều chị mất đi thiên chức làm mẹ hay vĩnh viễn mang nỗi đau trên cơ thể. Nhưng chính “địa ngục trần gian” này đã tôi luyện ý chí, giúp các chị vượt qua những đòn thù tàn khốc, hay sẵn sàng đón nhận những bản án tử hình khắc nghiệt để giữ vững khí tiết kiên trung của người cách mạng.

– Đó là tấm gương nữ Bí thư Thành ủy Sài Gòn đầu tiên Nguyễn Thị Minh Khai (1910 – 1941) với câu nói nổi tiếng trước khi bị xử bắn năm 1941: “Việc chúng tôi làm là chính nghĩa. Vì muốn cho Tổ quốc chúng tôi được độc lập, dân chúng tôi được ấm no mà chúng tôi làm cách mạng”.
– Đó là nữ anh hùng huyền thoại Võ Thị Sáu (1933 – 1952), mới 14 tuổi đã trở thành chiến sĩ trinh sát đội công an xung phong vùng Đất Đỏ (nay thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu). Giặc Pháp đưa chị Võ Thị Sáu ra pháp trường xử bắn. Tên chánh án hỏi chị: “Còn yêu cầu gì trước khi chết?”. Chị nói: “Không cần bịt mắt tôi. Hãy để cho đôi mắt tôi được nhìn đất nước thân yêu đến giây phút cuối cùng và tôi có đủ can đảm để nhìn thẳng vào họng súng của các người!”. Nói xong, chị bắt đầu cất cao tiếng hát. Chị hát bài Tiến quân ca. Giọng hát của người con gái Đất Đỏ lúc này thiết tha bay bổng, say sưa át cả tiếng tên chánh án đọc lệnh thi hành án tử hình và tiếng hô ra lệnh cho toán lính lên đạn của tên đội trưởng lê dương. Khi tên chỉ huy ra lệnh cho bọn lính chuẩn bị nổ súng thì chị lập tức ngưng hát và hô vang: “Đả đảo thực dân Pháp!”. “Việt Nam độc lập muôn năm!”. “Hồ Chủ tịch muôn năm!”. Chị Sáu vẫn ngẩng cao đầu và tiếng hô cuối cùng của chị không mất đi mà vang vọng mãi đến thiên thu.
– Tấm gương của chị Lê Thị Riêng (1925 – 1968) dành trọn tuổi trẻ “chiến đấu cho hạnh phúc không tan, cho con sớm gần mẹ, cho người không còn tang tóc, chia ly” được toàn thể phụ nữ và nhân dân Miền Nam cảm mến, tin yêu.
– Nữ tướng Nguyễn Thị Định (1920 – 1992) với tên tuổi gắn liền với phong trào Đồng Khởi tại Bến Tre đầu những năm 1960. “Đội quân tóc dài” dưới sự lãnh đạo của bà đã trở thành nỗi khiếp sợ của quân thù.
– Nụ cười rạng rỡ, hiên ngang của nữ tù trẻ tuổi Võ Thị Thắng (1945 – 2014) đã trở thành biểu tượng cho khí phách anh hùng của thế hệ thanh niên Việt Nam những năm chống Mỹ. Khi bị bắt vào tay giặc, bị tra hỏi: “Suy cho cùng, chị bị bắt cũng bởi lòng trắc ẩn. Sau này chị có hối hận không ?”
“Có gì phải hối hận. Tôi làm nhiệm vụ do nhân dân, Tổ quốc giao phó. Tôi không thể giết một người vô tội. Đó là bản chất của cuộc cách mạng. Chúng ta làm cách mạng để giành độc lập dân tộc mạng lại hạnh phúc cho nhân dân. Ta chỉ trừ khử những kẻ cố tình đến xâm lược đất nước ta và cả những kẻ cố tình phản bội lại dân tộc mà thôi”.
– Nữ chiến sĩ kiên trung trở về từ cõi chết Trần Thị Lý (1933 – 1992), dù qua nhiều nhà tù, chịu nhiều hình thức tra tấn dã man của kẻ thù như điện giật, dùi đâm, dao cắt, lửa nung, nhưng không lay chuyển và khuất phục được người con gái sông nước Thu Bồn. Cuộc đời hoạt động cách mạng của chị Trần Thị Lý gắn liền với chặng đường đấu tranh anh dũng chống đế quốc Mỹ của đồng bào miền Nam và của nhân dân cả nước ta. Được rèn luyện, thử thách trong các giai đoạn đấu tranh cách mạng, lúc bí mật, lúc công khai, suốt trong những năm tháng sống trong tù đày, tra tấn, chị luôn nêu cao phẩm chất sáng ngời của một cán bộ cách mạng kiên trung, vững vàng trong mọi tình huống. Chị là một biểu tượng cho tinh hoa của người con gái Việt Nam “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”, cho ý chí kiên cường của dân tộc ta “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”.
– Câu chuyện về bản lĩnh của bà Nguyễn Thị Bình (1927) tại Hội nghị Paris năm 1973. Khi tham gia phỏng vấn, trả lời báo chí bà có nói rằng: “Người Mỹ có thể lên Mặt trăng và trở về an toàn. Còn sang Việt Nam, thì chúng tôi không chắc!”. Bà cũng là người phụ nữ duy nhất ký Hiệp định Paris năm 1973, với những phát biểu thể hiện ý chí kiên cường và niềm tin sắt đá vào chân lý cách mạng, như: “Chúng tôi không chỉ đi theo cách mạng bằng trái tim của người yêu nước, mà còn bằng lý trí của người tin vào chân lý”
Những người mẹ, người chị, người em dịu dàng, nhỏ nhắn, đã hòa mình vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Khi đất nước lâm nguy, chị em hăng hái tham gia đánh giặc bằng “đòn gánh đánh càn” ở miền Bắc, “tầm vông diệt giặc” ở miền Nam… Những đội nữ du kích, tự vệ địa phương, nữ thanh niên xung phong xông pha nơi chiến trường ác liệt hay những nữ chiến sĩ chiến đấu thầm lặng nơi đầu não của địch đã góp phần làm nên chiến thắng lẫy lừng của dân tộc trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
Những người phụ nữ nơi hậu phương “Giỏi một nghề, biết nhiều việc”. Các mẹ, các chị giữ một “tấm lòng son”, chăm lo sản xuất, nuôi dạy con ngoan, học hành tiến bộ, chăm sóc chu đáo cha mẹ già yếu. Bảo đảm sự ổn định, vững vàng của hậu phương lớn miền Bắc, hỗ trợ đắc lực cho tiền tuyến lớn miền Nam. Tiếp nối truyền thống, phụ nữ Việt Nam hôm nay luôn nỗ lực vượt qua rào cản về định kiến giới, năng động, sáng tạo, “Giỏi việc nước, đảm việc nhà”, hăng say cống hiến để khẳng định vị trí, vai trò của mình trong thời đại mới “Tự tin, tự trọng, trung hậu, đảm đang”.
Phòng Trưng bày- Tuyên truyền